Các loài thủy tộc Động_vật_hình_mẫu

Cá mập

Cá mập được mô tả như một cổ máy giết chóc ở vùng biển

Cá mập hung ác hay khát máu và được hình mẫu như là một cổ máy giết người. Cá mập thường được miêu tả là những con quái vật sẽ ngay lập tức tấn công bất cứ thứ gì bơi trong vùng lân cận của chúng. Trái với niềm tin phổ biến, chỉ có một vài con cá mập nguy hiểm với con người. Trong số hơn 470 loài, chỉ có bốn loài đã tham gia vào một số lượng đáng kể các cuộc tấn công gây tử vong, chưa được thực hiện đối với con người: cá voi trắng, đại dương, hổ và cá mập bò lớn. Những con cá mập này là những kẻ săn mồi to lớn, mạnh mẽ và đôi khi có thể tấn công và giết người. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, cá mập tấn công con người là cực kỳ hiếm. Số ca tử vong trung bình trên toàn thế giới mỗi năm từ năm 2001 đến 2006 từ các cuộc tấn công cá mập không được chứng minh là thấp.

Trong thần thoại Hawaii, cá mập được tôn sùng như những vị thần, với Kamohoalii và Pele là những ví dụ nổi tiếng. Trong thần thoại Fijian, Dakuwaqa cũng là một vị thần cá mập. Cá mập thường được cho là miễn dịch với bệnh tật, đặc biệt là ung thư. Tuy nhiên, đây là một truyền thuyết đô thị. Cả bệnh và ký sinh trùng đều ảnh hưởng đến cá mập. Bằng chứng cho thấy cá mập ít nhất kháng ung thư và bệnh tật chủ yếu là giai thoại và đã có rất ít, nếu có, các nghiên cứu khoa học hoặc thống kê cho thấy cá mập có khả năng miễn dịch cao đối với bệnh tật. Ngoài ra, cá mập còn được xem là một kẻ tội nghiệp khi chúng buộc phải bơi liên tục kể cả khi ngủ, nếu ngừng bơi, chúng sẽ chết chìm.

Cá voi

Cá voi sát thủ là những sinh vật nguy hiểm và nhẫn tâm

Cá voi ăn thịt người và là biểu tượng của sự khổng lồ: Do kích thước khổng lồ của chúng, mọi người đã sợ rằng cá voi sẽ nuốt chửng bất kỳ sinh vật nào. Trong thực tế, hầu hết cá voi sống nhờ sinh vật phù du và không thể nuốt những sinh vật lớn hơn do đó chúng không hề ăn thịt người. (Tuy nhiên, định nghĩa về "cá voi" này không bao gồm gia đình cá voi có răng, nhiều thành viên trong tiếng Anh không được coi là cá voi.) Ví dụ: Monstro trong Pinocchio, Jonah và Cá voi, Moby-Dick.

Cá voi hùng vĩ, duyên dáng, dịu dàng Ví dụ: Cá voi muốn hát tại Met, một bộ phim hoạt hình Disney năm 1946 về một con cá voi muốn trở thành ca sĩ opera, nhưng bị giết bởi những người săn cá voi. Album 1970 của ca khúc Cá voi lưng gù và các chiến dịch Save the Whales cũng đã làm rất nhiều để củng cố hình ảnh của cá voi như những người khổng lồ hiền lành. Một khuôn mẫu khác liên quan đến cá voi là thường xuyên nhảy lên khỏi mặt nước, khi nó thực sự tương đối hiếm.

Cá voi sát thủ (Orca) hay cá hổ kình được khuôn mẫu là những sinh vật độc ác, hung dữ, tàn nhẫn. Ví dụ: Orca: Cá voi sát thủ, Camu từ tập phim Angry Beavers "Moby Dopes", Buster trong Kenny the Shark. Orca mạnh mẽ, hùng vĩ trong phim giải cứu Willy, Moby Lick từ Street Sharks, Spot from The Little Mermaid. Orcas thường được coi là những thợ săn đáng gờm và đáng nể nhất trên biển, sợ hãi ngay cả bởi những con cá mập trắng lớn.

Các loài cá

  • thường được hình mẫu với những chú cá vui vẻ tràn đầy sắc màu và năng động. Định kiến này đặc biệt phổ biến với những loài cá nhiệt đới thường có màu sắc tươi sáng ví dụ: Cleo trong phim Pinocchio, Flounder, Nemo, Marlin, Dory, Gill, trong phim Finding Nemo, Oscar từ Shark Tale. Ngoài ra câu nói tiếng Anh: “have other fish to fry” trong tiếng Anh nghĩa là có chuyện phải làm.
Cá vàng được biết đến là những sinh vật có trí nhớ kém với tên gọi là não cá vàng, đây là định kiến không chính xác
  • Nhiều con nhỏ được mô tả là trầm lặng, yên ắng, lặng lẽ (trong tiếng Anh có các thành ngữ về cá như "a cold fish": người lạnh lùng hay "a fish out of water": người lạc lõng).
  • Cá vàng nhìn chung là loài vật nuôi được khuôn mẫu là thông minh và đáng yêu như con cá vàng Cleo trong tác phẩm Pinocchio. Truyền thuyết về não cá vàng dựa trên ý tưởng rằng cá vàng chỉ có bộ nhớ ba giây, đó là một truyền thuyết đô thị. Thực tế cá vàng có trí nhớ lâu hơn nhiều, tính bằng tháng.
  • Cá heo vui vẻ và hay giúp con người, chúng thường bơi theo đàn và theo những con tàu, chúng được cho là hay cứu người khi chết đuối.
  • Piranha háu ăn và hung ác: Những con cá này thường được miêu tả như thể chúng ăn bất cứ thứ gì ném xuống nước mà chúng bơi vào, chúng được mô tả với đặc trưng với hàm răng lởm chởm sắc như dao cạo. Mặc dù cá piranha khét tiếng với hành vi này, các nghiên cứu đã chứng minh rằng chúng không luôn tấn công các sinh vật dưới nước ngay lập tức. Ví dụ: Piranha (phim 1978), cá piranha trong You Only Live Twice.

Bạch tuộc

Bạch tuộc thường được khuôn mẫu là quái vật khổng lồ ở đáy biển, trên thực tế, các loài bạch tuộc còn tồn tại đều có kích thước vừa phải

Con bạch tuộc được khuôn mẫu là những sinh vật khổng lồ trồi lên từ đáy đại dương để ăn thịt người tấn công và phá hủy tàu bè. Con bạch tuộc khổng lồ đã trở thành chủ lực của văn hóa dân gian biển trong nhiều thế kỷ và đã được xuất hiện trong các câu chuyện như The Kraken, Pirates of the Caribbean: Dead Man's Chest và Hai mươi ngàn dặm dưới đáy biển (Twenty Thousand Leagues Under the Sea), Mega Shark Versus Giant Octopus. Đáng chú ý là trong những câu chuyện này, những con quái vật bạch tuộc dường như chỉ nhắm vào con người (nhân vật chính) mặc dù trong khung cảnh hư cấu có nhiều con mồi dễ bắt hơn dành cho chúng.

Bạch tuộc còn tượng trưng cho tội phạm Mafia với ảnh hưởng của bộ phim “Bạch tuộc”-La Piovra của truyền hình Ý và vòi bạch tuộc chỉ về hệ thống tội pham. Nhiều áp phích tuyên truyền thường miêu tả con người như một con bạch tuộc đang ngồi trên một quả địa cầu trải rộng các xúc tu nhầy nhụa của nó để chiếm lấy toàn bộ thế giới. Trong văn hóa Nhật Bản, con Bạch tuộc hài hước hoặc khiêu dục. Một ví dụ nổi tiếng là một bức tranh khắc gỗ mang tên Giấc mơ của người vợ ngư phủ mô tả cảnh một phụ nữ Nhật Bản đang làm tình với con bạch tuộc với những xúc tu trơn trượt luồn quanh bộ phận sinh dục của bà này làm người phụ nữ đó rơi vào trạng thái đê mê.

Con cua

Con cua được hình mẫu là những sinh vật bò ngang và kéo đàn

Động vật giáp xác thông thường được khuôn mẫu đơn giản như là những món ăn. Có một số loài giáp xác hài hước và gây cười như chú cua Sebastian trong phim hoạt hình “Nàng tiên cá”. Nhưng vẫn có những khuôn mẫu về những loài cua khổng lồ là những quái vật kinh dị phổ biến trong truyện tranh và phim ảnh về bộ phim kinh dị.

Cua đi ngang: Điều này là do sự khớp nối của đôi chân làm cho dáng đi bên ngoài hiệu quả hơn. Tuy nhiên, một số loài cua đi về phía trước hoặc phía sau. Trong những câu chuyện âm nhạc, loài cua thường sẽ được miêu tả bằng cách sử dụng móng vuốt của chúng như những chiếc đàn vĩ cầm, chính vì vậy có những loài cua được tên là “cua kéo đàn”.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Động_vật_hình_mẫu https://en.wikipedia.org/wiki/Bee_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Cicada_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Coyote_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Emmet_(heraldry) https://en.wikipedia.org/wiki/Fictional_depictions... https://en.wikipedia.org/wiki/Ged_(heraldry) https://en.wikipedia.org/wiki/Giant_squid_in_popul... https://en.wikipedia.org/wiki/Human_interactions_w... https://en.wikipedia.org/wiki/Human_uses_of_living... https://en.wikipedia.org/wiki/Jaguars_in_Mesoameri...